Thứ Ba, 17 tháng 6, 2008

LUẬT ĐẦU TƯCỦA QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

LUẬT ĐẦU TƯCỦA QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM SỐ 59/2005/QH11 NGÀY 29 THÁNG 11 NĂM 2005

Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10;
Luật này quy định về hoạt động đầu tư.

CHƯƠNG IXQUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẦU TƯ

Điều 80. Nội dung quản lý nhà nước về đầu tư
1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách về đầu tư phát triển.
2. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư.
3. Hướng dẫn, hỗ trợ nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư và giải quyết những vướng mắc, yêu cầu của nhà đầu tư.
4. Cấp, thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư.
5. Hướng dẫn, đánh giá hiệu quả đầu tư, kiểm tra, thanh tra và giám sát hoạt động đầu tư; giải quyết khiếu nại, tố cáo, khen thưởng và xử lý vi phạm trong hoạt động đầu tư.
6. Tổ chức hoạt động đào tạo nguồn nhân lực liên quan đến hoạt động đầu tư.
7. Tổ chức hoạt động xúc tiến đầu tư.

Điều 81. Trách nhiệm quản lý nhà nước về đầu tư
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đầu tư trong phạm vi cả nước.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư.
3. Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về đầu tư đối với lĩnh vực được phân công.
4. Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về đầu tư trên địa bàn theo phân cấp của Chính phủ.

Điều 82. Quản lý đầu tư theo quy hoạch
1. Chính phủ quy định về tổ chức lập, trình duyệt các quy hoạch theo quy định của pháp luật về quy hoạch.
2. Dự án đầu tư phải tuân thủ quy hoạch kết cấu hạ tầng - kỹ thuật, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng, quy hoạch sử dụng khoáng sản và các nguồn tài nguyên khác.
Quy hoạch vùng, quy hoạch ngành, quy hoạch sản phẩm phải phù hợp với lĩnh vực ưu đãi đầu tư, địa bàn ưu đãi đầu tư, lĩnh vực đầu tư có điều kiện và lĩnh vực cấm đầu tư quy định tại các điều 27, 28, 29 và 30 của Luật này và là định hướng để nhà đầu tư lựa chọn, quyết định đầu tư.
3. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền về quy hoạch có trách nhiệm công bố công khai các quy hoạch liên quan đến hoạt động đầu tư trên các phương tiện thông tin đại chúng.
4. Đối với dự án đầu tư chưa có trong các quy hoạch quy định tại Điều này, cơ quan nhà nước quản lý đầu tư có trách nhiệm làm đầu mối làm việc với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về quy hoạch để trả lời cho nhà đầu tư trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày nhà đầu tư có yêu cầu.

Điều 83. Xúc tiến đầu tư
1. Hoạt động xúc tiến đầu tư của các cơ quan nhà nước các cấp được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
2. Kinh phí cho hoạt động xúc tiến đầu tư của các cơ quan nhà nước được cấp từ ngân sách nhà nước.

Điều 84. Theo dõi, đánh giá hoạt động đầu tư
1. Cơ quan nhà nước quản lý về đầu tư các cấp tổ chức việc theo dõi, đánh giá và báo cáo hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật.
2. Nội dung theo dõi, đánh giá đầu tư bao gồm:
a) Việc ban hành văn bản hướng dẫn pháp luật theo thẩm quyền và thực hiện các quy định của pháp luật về đầu tư;
b) Tình hình thực hiện các dự án đầu tư theo quy định của Giấy chứng nhận đầu tư;
c) Kết quả thực hiện đầu tư của cả nước, các bộ, ngành và các địa phương, các dự án đầu tư theo phân cấp;
d) Báo cáo cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp, cơ quan nhà nước quản lý đầu tư cấp trên về kết quả đánh giá đầu tư, kiến nghị các biện pháp xử lý những vướng mắc và vi phạm pháp luật về đầu tư.

Điều 85. Thanh tra về hoạt động đầu tư
1. Thanh tra đầu tư có các nhiệm vụ sau đây:
a) Thanh tra việc thực hiện pháp luật, chính sách về đầu tư;
b) Phát hiện, ngăn chặn và xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý các vi phạm pháp luật về đầu tư;
c) Xác minh, kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo về đầu tư.
2. Tổ chức và hoạt động của thanh tra đầu tư theo quy định của pháp luật về thanh tra.

Điều 86. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện
1. Cá nhân có quyền khiếu nại, tố cáo và khởi kiện; tổ chức có quyền khiếu nại, khởi kiện theo quy định của pháp luật. Việc khiếu nại, tố cáo, khởi kiện và giải quyết khiếu nại, tố cáo, khởi kiện trong hoạt động đầu tư được thực hiện theo quy định của pháp luật.
2. Trong thời hạn khiếu nại, tố cáo hoặc khởi kiện, tổ chức, cá nhân vẫn phải thi hành quyết định hành chính của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về đầu tư. Khi có quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về đầu tư hoặc quyết định, bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì thi hành theo quyết định, bản án đó.
3. Cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về đầu tư các cấp có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của các tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền giải quyết của mình; trong trường hợp nhận được khiếu nại, tố cáo không thuộc thẩm quyền của mình thì có trách nhiệm chuyển kịp thời đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết và thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại, tố cáo biết.

Điều 87. Xử lý vi phạm
1. Người có hành vi vi phạm Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan đến hoạt động đầu tư thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
2. Người lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở hoạt động đầu tư; có hành vi sách nhiễu, gây phiền hà đối với nhà đầu tư; không giải quyết kịp thời yêu cầu của nhà đầu tư theo quy định; không thực thi các công vụ khác do pháp luật quy định thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Những Quy Định Về Luật BHXH Việt Nam

Xin mời quý vị và các bạn vào trang web của BHXHTP.HCM

http://www.bhxhhcm.org.vn/default.aspx

Đầu năm 2008 tăng lương tối thiểu

Đầu năm 2008 tăng lương tối thiểu


Không phải tất cả lao động đều được tăng lương.
Từ ngày 1/1/2008, lương tối thiểu của công chức sẽ tăng thêm 90.000 đồng, thành 540.000 đồng một tháng. Lương tối thiểu của doanh nghiệp trong và ngoài nước sẽ tăng theo vùng, thấp nhất là 540.000 đồng, cao nhất tới 1 triệu đồng.

Ngày 16/11, Chính phủ đã ban hành ba nghị định 166,167,168 về lương tối thiểu chung và lương tối thiểu vùng. Theo đó, từ đầu năm 2008, công chức làm việc tại các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp của nhà nước sẽ hưởng lương tối thiểu chung là 540.000 đồng một tháng. Như vậy, một người mới tốt nghiệp ĐH, làm việc trong cơ quan nhà nước, hưởng hệ số lương 2,34 thì tổng lương sẽ là 1.263.000 đồng, tăng 210.000 đồng so với hiện nay.

Đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), mức lương sẽ căn cứ theo vùng, nơi doanh nghiệp đóng trụ sở. Có 3 vùng, vùng 1 gồm các quận của Hà Nội, TP HCM. Vùng 2 gồm các huyện của Hà Nội, TP HCM, các quận của Hải Phòng, thành phố Hạ Long (Quảng Ninh), thành phố Biên Hòa (Đồng Nai), thành phố Vũng Tàu (Bà Rịa - Vũng Tàu), thị xã Thủ Dầu Một và các huyện Thuận An, Dĩ An, Bến Cát, Tân Uyên (Bình Dương). Vùng 3 là địa bàn còn lại.

Đối với doanh nghiệp trong nước, Chính phủ quy định lương tối thiểu của lao động làm việc tại vùng 1 sẽ là 620.000 đồng một tháng (tăng 38% so với hiện nay); vùng 2 là 580.000 đồng; vùng 3 là 540.000 đồng (tăng 20%). Đối với doanh nghiệp FDI, mức tăng 13-15% so với mức lương tối thiểu hiện nay, tương ứng 3 vùng là: 1.000.000; 900.000 và 800.000 đồng một tháng.

Chính phủ quy định rõ lương tối thiểu là mức thấp nhất trả cho lao động làm công việc giản đơn nhất, trong điều kiện làm việc bình thường. Nếu lao động đã qua học nghề (kể cả do doanh nghiệp tự dạy nghề) phải cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng. Chính phủ khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện mức lương tối thiểu cao hơn mức quy định.

Trước đó, Vụ trưởng Tiền công Tiền lương Phạm Minh Huân cho rằng tăng lương tối thiểu không có nghĩa tất cả lao động đều được tăng lương. Để thu hút nhân lực, phần đông doanh nghiệp đã trả cao hơn mức lương tối thiểu sắp ban hành. Việc điều chỉnh lương tối thiểu lần này chỉ làm tăng chi phí đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của doanh nghiệp. Hiện cả nước có khoảng 6 triệu lao động, trong đó doanh nghiệp FDI thu hút 1 triệu, doanh nghiệp nhà nước 2 triệu và doanh nghiệp dân doanh khoảng 3 triệu.

Riêng với lao động làm việc khu vực hành chính sự nghiệp (khoảng 1,5 triệu người), tăng lương tối thiểu chung đồng nghĩa nhà nước sẽ phải bỏ thêm một khoản ngân sách rất lớn. Trước đó, để tăng lương tối thiểu từ 350.000 lên 450.000 đồng, nhà nước đã phải chi trên 30.000 tỷ đồng.

Với cơ quan nhà nước và doanh nghiệp trong nước, đây là lần điều chỉnh lương lần thứ tư trong vòng 5 năm qua, từ mức 210.000, lên 290.000, 350.000, 450.000 và cuối cùng là 540.000 đồng một tháng. Với doanh nghiệp FDI, đây là lần điều chỉnh lương thứ hai. Hiện lương tối thiểu của doanh nghiệp FDI lần lượt là 870.000, 790.000 và 710.000 đồng, tương ứng với 3 vùng.

Tìm kiếm

Được xem nhiều nhất